Sunday, July 31, 2011

Sự kỳ diệu của niềm tin by Claude M.Bristol

[Marketing4u.vn] Tất cả mọi sự vĩ đại đều bắt đầu bằng một ý nghĩ và được tiếp năng lượng bằng một niềm tin để biến thành hiện thực. 

“Dần dần tới khám phá ra rằng có một sợi chỉ đỏ xuyên suốt mọi bài học và làm cho nó phát huy tác dụng đối với những ai thành thật chấp nhận và áp dụng chúng, và sợi chỉ đó có thể được gọi bằng một từ duy nhất – “Niềm Tin”. Chính cái yếu tố đó, niềm tin, đã khiến con người đựơc chữa bệnh bằng tinh thần, cho phép người khác trèo lên nấc thang thành công, và gặt hái những kết quả kỳ lạ cho tất cả những ai chấp nhận nó” 

“Không nghi ngờ gì, chúng ta trở thành như những gì chúng ta nhìn dung” 

Claude Bristol là một nhà báo ương ngạnh trong nhiều năm, ông từng là phóng viên cảnh sát và biên tập viên tôn giáo của một tờ báo lớn của thành phố. Trong công việc này, ông gặp những người từ mọi giáo phái, và sau này đọc hàng trăm sách tâm lý, tôn giáo, khoa học, siêu hình học, và phép thần thông của cổ xưa. Dần dần, Bristol bắt đầu thấy “sợi chỉ đỏ” chạy xuyên suốt mọi tôn giáo và những lời dạy bí truyền: bản thân niềm tin có những sức mạnh kỳ diệu.

Trải qua nhiều năm suy nghĩ về sức mạnh của tư duy, ông cho rằng những người khác cũng biết điều đó. Ông đã lầm. Kỳ lạ thay, ông thấy rằng phần lớn người ta sống cả cuộc đời mà không nhận ra niềm tin mạnh mẽ có tác động đến việc đạt được các mục tiêu của họ; họ chỉ có những mong muốn mơ hồ và vì vậy cũng gặt được những kết quả không rõ ràng. 

Khi còn là lính trong Thế Chiến thứ nhất, có lúc Bristol không có lương và thậm chí không có tiền mua thuốc lá. Ông quyết tâm rằng khi giải ngũ, ông sẽ có rất nhiều tiền. Trong đầu ông là cả một sự quả quyết, không phải là một mong ước. Chưa đầy một ngày sau khi ông trở về nhà, một người làm trong ngân hàng liên lạc với ông, người này đã đọc được câư chuyện về ông trên tờ báo địa phương, Bristol được mời làm việc, và dù bắt đầu với một đồng lưong ít ỏi, ông không ngừng đặt trước mặt mình “ một bức tranh trong đầu về sự giàu có”. Trong những lúc yên tĩnh hay khi nói chuyện điện thoại, ông nguệch ngoạc viết các dấu hiệu của đồng đô la lên các mẫu giấy có trên bàn làm việc. Ông cho rằng sự xác định rõ ràng niềm tin quan trọng hơn bất kỳ điều gì khác mở đường cho sự nghiệp trong ngân hàng đầu tư và kinh doanh vô cùng thành công. 

Bristol đã học được chân lý trong câu nói của triết gia William James, “Niềm tin được chứng minh trong sự việc”. Bởi vì những suy nghĩ lo lắng sợ hãi khiến bạn trải nghiệm tình huống mà bạn không thể ngừng suy nghĩ (kinh thánh Job đã nói “Điều mà tôi sợ nhất lại xảy đến với tôi”), suy nghĩ lạc quan và mong chờ vào điều tốt đẹp nhất chắc chắn sẽ hình thành nên các tình huống thuận lợi. 

Niềm tin và số phận 

Khi còn bé, Napoleon Bonaparte được cho một ngôi sao ngọc bích, cùng với lời tiên tri rằng ngôi sao sẽ mang lại cho ông vận may và giúp ông trở thành Hoàng đế nước Pháp. Napoleon chấp nhận điều đó như một sự thật hiển nhiên, và do đó ông nghĩ rằng sự thăng tiến của ông chắc chắn xảy ra. 

Bristol kể câu chuyện hấp dẫn của Opal Whiteley, con gái của người tiều phu vùng Oregon. Cô tự nghĩ rằng mình là con gái của Henri d’Orleans, một kẻ phản động tuyên bố là Vua của nước Pháp. Một cuốn nhật ký được tuyên bố là do cô viết mô tả về cha mẹ hoàng gia của cô, cho dù hầu hết mọi người tin đó là điều bịa đặt. Tuy nhiên, khi Opal bước vào tuổi hai mươi, cô được đưa đến Ấn Độ, đi trên một xe ngựa theo kiểu vua chúa của Maharaja of Udaipur; cuối cùng giờ đây cô đang sống trong gia đình hoàng gia. Một người đàn ông làm cho tờ báo Oregon Newspaper đã biết Opal khi cô còn nhỏ ghi nhận rằng: “Thật là thần bí, gần như là siêu tự nhiên, cái cách mà tình huống diễn ra như trong kế hoạch của cô ấy.” 

Điều này đã đưa chúng tôi đến với thông điệp lớn nhất của Điều kỳ diệu của niềm tin: hầu như bất kể thứ gì đều có thể là của bạn, và bạn có thể là bất cứ điều gì, nếu bạn có khả năng phát triển “sự biết” về điều đó mà bạn không bao giờ cần phải thắc mắc. Bristol nói về Napoleon và Alexander Đại đế, “Họ trở thành những đàn ông siêu phàm bởi vì họ có những niềm tin lạ thường”. Niềm tin của bạn về chính bản thân bạn và về vị trí của bạn trong thế giới có thể cho rằng đó là yếu tố chính quyết định thành công. 

Kẻ đầy tớ trong tiềm thức 

Bristol nói rằng nếu bạn có thể hiểu được mối quan hệ giữa ý thức và tiềm thức, bạn sẽ hiểu được cốt lõi của sức mạnh niềm tin. Tiềm thức luôn hoạt động để biểu lộ niềm tin và mong muốn sâu sắc nhất của chúng ta. Nó là một đầy tớ trung thành, luôn thay mới, hướng dẫn và tạo cảm hứng, nhưng để có được điều tốt nhất từ tiềm thức cần có sự tôn trọng vào niềm tin, vào điều nó có thể làm. Bởi vì tiềm thức vận hành dưới dạng hình ảnh, cho nên chúng ta cần phải nuôi dưỡng nó bằng sự hình dung trong đầu về điều chúng ta mong muốn. Sau đó, nếu có thể làm sống dậy, hiện thực hóa hình ảnh đã được ấn định trước đó, và cho chúng ta khả năng trực giác về việc cần phải làm, nơi cần đến và người cần gặp. 

Bằng cách này hay cách khác, tiềm thức được kết nối với các phần khác của bộ não chúng ta, và qua luật phóng xạ và luật hấp dẫn, nó có thể hút các sự kiện và con người đến với chúng ta, hỗ trợ chúng ta biến giấc mơ thành hiện thực. Tuy nhiên, nó chỉ có thể làm cho hình ảnh trở nên thật nếu hình ảnh đó rõ ràng và thuyết phục. Vì thế, những hình ảnh về thành công ta hình dung trong đầu để nuôi dưỡng tiềm thức rất quan trọng. Sức mạnh của niềm tin không thề vận hành thật sự để phục vụ cho chúng ta cho đến khi niềm tin trở thành là một phần của chúng ta theo nghĩa đen, đã nằm trong tiềm thức của chúng ta như là một thực tế. 

Thiết lập suy nghĩ và niềm tin 

Bristol lưu ý rằng tất cả những nhà khoa học nổi tiếng về điện Edison, Steinmetz, Tesla, Marconi, đều quan tâm đến thần giao cách cảm. Họ không hề thấy buồn cười khi nghĩ rằng suy nghĩ có thể di chuyển qua không khí, rằng chỉ mỗi suy nghĩ cũng có thể ảnh hưởng lên sự kiện nếu, cũng giống như mọt tín hiệu sóng vô tuyến tốt, nó mạnh mẽ và rõ ràng. 

Bristol mượn ý từ các nguyên tắc Tư Duy Mới để cho rằng có sự thông minh trong tất cả những gì tồn tại trong vũ trụ và chúng ta được kết nối với nhau bởi một loại trí tuệ toàn cầu. Jung có một ý nghĩ tương tự với thuyết “vô thức tập thể” của ông. Sức mạnh của niềm tin là một máy phát tín hiệu đến với vũ trụ từ đó đi vào đầu của những người khác và thậm chí vào những vật vô tri vô giác. Đài phát của bạn càng mạnh thì khả năng thế giới sẽ thu nhận nó và phản hồi lại càng cao. Nhà thiên văn học Sir Arthur Eddington đã nói rằng có thể quy luật tự nhiên của vũ trụ được hình thành từ tư duy của con người, và môn vật lý lượng tử hiện đại cũng không loại trừ điều đó. 

Theo giải thích của Bristol, một người có niềm tin mạnh mẽ sẽ tồn tại với một sự chuyển động nào đó, sự chuyển động này tìm kiếm cái tương tự nó theo hình thức sự việc. Do đó, ông đi đến một kết luận đáng chú ý là chúng ta không đạt được các mục tiêu chỉ bằng các hành động, mà điều đó còn phụ thuộc vào chất lượng và cường độ của niềm tin chúng ta rằng chúng sẽ hoàn thành. 

Sức mạnh của gợi ý 

Bristol cho rằng bùa, phép và các mẫu giấy chúc may mắn không tự mang đến điều may mắn, mà chính niềm tin vào hiệu nghiệm của nó mới có tác động mạnh mẽ. Tại sao người ta lại tụng kinh, lặp đi lặp lại các lời khẳng định, đánh trống, hay đếm các chuỗi hạt? Sự lặp đi lặp lại là một cách để khắc sâu các gợi ý vào trong đầu óc của chúng ta, “một phép lạ” cho phép chúng ta biến một điều ước thành một điều chúng ta hằng mong đợi. Bằng cách làm cho nó trở thành chính thức, cho nó một cấu trúc, ý nghĩ sẽ biến đổi từ một điều ước đơn thuần thành một hiện thực sắp sửa xảy ra. Chúng ta cám ơn những gì đang hiện hữu hay sắp sửa xảy ra. Bristol nói, “sức mạnh cực kỳ to lớn của sự lặp đi lặp lại tư tưởng” đầu tiên vượt qua lý lẽ thông qua tác động lên cảm xúc của chúng ta và thâm nhập vào tiềm thức, mà ở đấy vấn đề chỉ là thời gian trước khi ý nghĩ ấy diễn ra trong thực tế. Điều này hẳn nhiên là nguyên tắc đằng sau các chiến dịch tuyên truyền và quảng cáo đã thu được thành công. 

Bristol cũng cảnh báo về sự lạm dụng của kỹ thuật tinh thần đi kèm niềm tin mạnh mẽ và gợi ý: đó là một sức mạnh cần được sử dụng một cách có ích chứ không phải để khống chế. Cuốn sách của ông được dành cho “ những người suy nghĩ độc lập của mọi thời đại” mong muốn dùng niềm tin vào mục đích sáng tạo, vì cuộc sống. Ông nói nhiều về sức mạnh của niềm tin trong việc hàn gắn vết thương thể xác. 

Lời bình cuối 

Maxwell Maltz, tác giả cuốn “Tâm Lý Điều Khiển Học” (Psycho-Cybernetics) nói “ Quy luật trí tuệ là quy luật của niềm tin.” Ý ông muốn nói rằng niềm tin, hơn bất cứ thứ gì, điều khiển chúng ta hành động như thế. Đó chính là thợ nặn tạo nên con người chúng ta. 

Hãy thử nghĩ đến hệ thống niềm tin chính trong lịch sử. Dù tốt hay xấu, các hệ thống tư tưởng này đã trở thành niềm tin và tạo nên thế giới chúng ta đang sống. Niềm tin về chính bản thân bạn có đủ mạnh để thay đổi thế giới của bạn hay không? 

Cuốn Sự Kỳ Diệu của niềm tin lặp đi lặp lại và dài lê thê, các ví dụ thì lỗi thời, các lời khuyên cụ thể để áp dụng các ý của nó không nhiều, và bạn có thể sẽ phải thốt lên rằng, “Đi thẳng vào vấn đề đi”. Một số đọc giả cũng bị lệch hướng bởi tính phi khoa học của cuốn sách. Tuy nhiên, điều kỳ lạ là nó có thể cho thấy nhiều điều khi đọc lần hai, ba hay bốn. Bristol biết rằng, rốt cuộc, các sách viết về bí truyền cổ xưa thường cố tình viết không rõ ràng để che đậy bí mật đối với những người không thạo hay những người lạm dụng chúng. Có thể bạn không thích đọc sách này, nhưng chỉ cần có nó cũng có thể nhắc nhở bạn về sức mạnh của niềm tin. 

Cũng có thể khó mà tiêu hóa một vài “tư tưởng”, như từ của tác giả dùng. Ngay chính ông cũng hoài nghi, nhưng rồi nhận ra rằng tất cả chúng ta đều nghĩ đến sự kỳ diệu của niềm tin khi chúng ta nhất định muốn điều gì đó trở thành hiện thực. Nghệ sĩ dương cầm Liberace được cho là đã thay đổi cuộc đời mình sau khi đọc Sự kỳ diệu của niềm tin. Và trong chương về “Phụ nữ và khoa học niềm tin.” Bristol nhắc đến tên của Marie Curie, Mary Baker Eddy (sáng lập ra khoa học Cơ Đốc), Florence Nightingale, Harriet Beecher Stowe (tác giả của truyện Túp lều bác Tom), và nữ diễn viên Angela Lansbury là những ví dụ của người dựa vào sức mạnh của niềm tin để đạt được những điều kỳ diệu. Lansbury trả lời phỏng vấn rằng: “Khi các bạn học được cách làm thế nào để dẫn đến sức mạnh tiềm thức của bạn, thật sự không còn giới hạn cho điều bạn muốn đạt được”. Sức mạnh tinh thần của những phụ nữ này thật to lớn, nhưng chúng ta có thể phát triển “niềm tin thông minh” tương tự như họ vào cuộc sống của chúng ta. 

Sơ lược về tác giả: Claude M. Bristol 

Sinh năm 1891, Bristol phục vụ quân đội trong Thế Chiến thứ nhất ở Pháp và Đức. Ông làm việc cho tờ báo quân đội Stars anh Stripes đến năm 1919. 

Bristol kể rằng Sự kỳ diệu của niềm tin được viết cho những người đàn ông xuất ngũ và phụ nữ phải thích nghi trở lại cuộc sống dân sự và cố gắng làm ăn phát đạt. Cuốn sách được xuất bản khi ông bước vào tuổi năm mươi và theo sau thành công của cuốn sách bỏ túi TNT: It Rocks the Earth. 

Bristol là một phát ngôn viên được nhiều người biết đến tại các câu lạc bộ, tổ chức kinh doanh và doanh nhân. Ông mất năm 1951.


Các sách cùng chủ đề:
  • Joseph Murphy - "Sức mạnh của tiềm thức"

  • Florence Scovel Shinn - "Cánh cửa bí mật tới thành công"

  • David J. Schwartz - "Sự kỳ diệu của nghĩ lớn"

  • Wallace D. Wattles - "Khoa học làm giàu"

Saturday, July 30, 2011

5 thách thức đặt ra với Chính phủ mới




Chuyên gia Phạm Chi Lan:
Chuyên gia Phạm Chi Lan:
"Thập kỷ tới là thời gian vô cùng
 thách thức với Chính phủ và
Quốc hội". Ảnh: T.T
[VnEx] Bất ổn kinh tế vĩ mô, tham nhũng, nhóm lợi ích, chênh lệch giàu nghèo và chủ quyền là 5 thách thức cần Chính phủ giải quyết trong nhiệm kỳ mới để đưa đất nước vượt qua vùng "nguy hiểm", theo chuyên gia Phạm Chi Lan.

Với kinh nghiệm hàng chục năm làm kinh tế, gắn bó cùng doanh nghiệp và tư vấn chính sách cho Chính phủ, bà Phạm Chi Lan chia sẻ với VnExpress.net kỳ vọng của mình về Thủ tướng và bộ máy điều hành mới.

"Tôi cho rằng nhiệm kỳ 5 năm tới của Chính phủ có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với vận mệnh của đất nước. Cũng vì thế mà nhiệm vụ và thách thức với Thủ tướng cũng như bộ máy điều hành mới vô cùng nặng nề.
Thách thức lớn nhất trong nhiệm kỳ mới chính là bất ổn kinh tế vĩ mô, thể hiện ở lạm phát, nhập siêu, nợ công, quản lý các tập đoàn nhà nước... Nếu không giải quyết được ngay trong 5 năm tới chúng ta khó lòng hoàn thành mục tiêu cho cả 10 năm. Một vị cựu Phó chủ tịch Ngân hàng Thế giới từng khuyến cáo Việt Nam sau khi thoát bẫy nghèo có thể tiến tới "vùng nguy hiểm" trong thập kỷ này. Vùng nguy hiểm được ông ấy phân tích chính là việc chúng ta vừa thoát khỏi nước nghèo và bắt đầu đặt chân vào mức thu nhập trung bình thấp, nếu không vượt qua được sẽ lại rơi vào điểm nghèo hoặc vướng ở mốc thu nhập trung bình thấp trong thời gian rất dài. Nếu như vậy, Việt Nam sẽ không thể hóa rồng mà chỉ ngấp nghé như Malaysia hay Thái Lan hiện nay mà thôi.

Suốt 4 năm qua, kinh tế của chúng ta luôn trong tình trạng bất ổn. Ngoại trừ năm 2007, ngay sau khi gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) mọi thứ đều thuận lợi, nhưng những năm sau đó khó khăn chất chồng. 2008 thì bất ổn vĩ mô nặng nề, lạm phát phi mã, nhập siêu cũng cao đỉnh điểm. Bước sang 2009 thì kinh tế suy giảm, doanh nghiệp khốn đốn, tăng trưởng không âm như các nước nhưng ở mức thấp kỷ lục. Đến năm 2010, tình hình cũng không tốt đẹp. Năm nay lạm phát lại cao, và những bất ổn vĩ mô thậm chí còn nghiêm trọng hơn cả năm 2008.

Khi kinh tế khó khăn, Chính phủ đã đưa ra các giải pháp tương đối cơ bản để ổn định vĩ mô, nhưng quá trình thực hiện chưa triệt để nên hiệu quả chưa cao. Chẳng hạn đầu 2008 chúng ta đưa ra 8 nhóm giải pháp quyết liệt chống lạm phát, ổn định vĩ mô, nhưng đến cuối năm xảy ra khủng hoảng kinh tế toàn cầu chúng ta lại bắt đầu thiên nhiều hơn về tăng trưởng, để rồi phải đưa ra các gói kích thích kinh tế hàng tỷ đôla. Cái giá để chống suy giảm như vậy quá đắt, hơn nữa nó lại thủ tiêu những nỗ lực thắt chặt, bình ổn trước đó.

Năm nay cũng vậy, Nghị quyết 11 là ví dụ điển hình của việc đưa ra giải pháp trúng nhưng chưa được thực hiện triệt để, hiện mới tập trung nhiều ở lĩnh vực tín dụng. Thực hiện thắt chặt tín dụng cũng còn méo mó. Lẽ ra cần kiểm soát những lĩnh vực nóng như bất động sản, chứng khoán. Nhưng chúng ta lại thắt đại trà ở mọi lĩnh vực, mọi loại hình doanh nghiệp, mọi ngân hàng, cho dù Chính phủ đã có chủ trương ưu tiên vốn cho nông nghiệp nông thôn, doanh nghiệp vừa và nhỏ, cho xuất khẩu, để rồi nhiều doanh nghiệp nguy cơ chết oan.

Tuyên bố trong kỳ họp cuối cùng của nhiệm kỳ cũ cho thấy Chính phủ đã nhận thấy những điểm chưa được trong quá trình triển khai 6 nhóm giải pháp vừa qua. Hy vọng, Chính phủ mới sẽ tiếp tục thực hiện các giải pháp này với tinh thần cương quyết hơn, đồng bộ hơn. Khi dùng các giải pháp mạnh để ổn định kinh tế vĩ mô ắt sẽ có nhiều lời kêu than. Nhưng tôi tin Chính phủ đủ công minh để xem xét đâu là than vãn đáng nghe, lời kêu đáng cứu. Tôi cũng tin Chính phủ có đủ năng lực quản lý, lắng nghe và sàng lọc những người có đủ năng lực điều hành kinh tế. Không thể để nền kinh tế của 86 triệu người bị ảnh hưởng bởi một vài người không đủ năng lực.

Thách thức thứ hai chính là tham nhũng. Luật Phòng chống tham nhũng được ban hành trong nhiệm kỳ Chính phủ vừa rồi, nhưng như một vị lãnh đạo cấp cao đã thừa nhận việc chống tham nhũng còn ít so với mong đợi và còn nhiều khó khăn trước mắt.

Tham nhũng hiện nay biến tướng phức tạp ở quy mô rộng hơn, tham lam hơn, làm thất thoát tài sản của dân nhiều hơn. Trong lịch sử chưa có vụ thất thoát nào lớn như Vinashin. Riêng chuyện nợ nần dây dưa giữa hai tập đoàn nhà nước là Petrovietnam và EVN đã lên tới hàng nghìn tỷ đồng.

Bên cạnh đó còn có tham nhũng đất đai, tài nguyên thiên nhiên gây khiếu kiện kéo dài.

Tham nhũng sẽ làm lãng phí tài nguyên, nguồn lực của đất nước và về lâu dài sẽ đe dọa tăng trưởng kinh tế. Tham nhũng cũng sẽ làm xói mòn lòng tin của dân trong nước cũng như cộng đồng nhà đầu tư quốc tế. Muốn có tăng trưởng phải có nguồn lực, nhưng nếu nguồn lực bị lợi dụng, bị tham nhũng thì người dân sẽ không còn nhiệt huyết tham gia đóng góp nữa. Nhà đầu tư nước ngoài sau nhiều năm im lặng thì nay họ đã phải nói thẳng ra quan ngại của họ về vấn nạn tham nhũng.

Bất bình đẳng gia tăng cũng là một thách thức mà theo tôi Quốc hội và Chính phủ nhiệm kỳ tới sẽ phải "nhức đầu" nhiều, phải cố gắng lo sao cho giảm bớt bức xúc của người dân. Điều này thực sự rất đáng tiếc. Trong suốt 25 năm đổi mới, Việt Nam được đánh giá cao về việc vừa tăng trưởng, vừa xóa đói giảm nghèo. Xóa đói giảm nghèo xét ở một góc độ nào đó có ý nghĩa như việc thu hẹp bất bình đẳng trong xã hội.




Chênh lệch giàu nghèo gia tăng cũng là thách thức cần Chính phủ giải quyết. Ảnh: Wall Street Journal
Chênh lệch giàu nghèo gia tăng cũng là thách thức cần Chính phủ giải quyết. Ảnh: Wall Street Journal

Bất bình đẳng lớn nhất hiện nay chính là thu nhập. Điều tra mức sống trong dân của Bộ Lao động Thương binh Xã hội tiến hành 2 năm một lần cho thấy rất rõ khoảng cách thu nhập và tiêu dùng giữa 25% giàu nhất và 25% nghèo nhất đang gia tăng rất nhanh. Nếu như 2006, khoảng cách tiêu dùng giữa hai nhóm này là 6 lần thì 2008 là 8 lần, và điều tra gần đây nhất đã là hơn 9 lần. Nếu nói về tài sản, khoảng cách này còn lớn hơn nhiều, thậm chí tới cả nghìn lần.

Bất bình đẳng trong xã hội biểu hiện qua việc tích tụ tài sản đang tăng ở một số ít người, trong khi một số lớn người mất dần tài sản, dẫn tới khiếu kiện gia tăng đặc biệt trong lĩnh vực đất đai. Nếu những người dân mất đất được bồi thường thỏa đáng, hoặc họ không cảm thấy mất mát quá nhiều, thiệt thòi quá đáng thì không đến nỗi có những chuyện khiếu kiện như vậy.

Giải quyết bất bình đẳng xã hội đòi hỏi trách nhiệm trực tiếp của Chính phủ, phải rà soát lại cơ chế, quá trình tổ chức thực hiện. Nhưng vai trò của Quốc hội cũng rất lớn. Quốc hội rất cần quan tâm nhiều hơn và cùng với Chính phủ giải quyết, chứ không chỉ giám sát rồi chuyển sang Chính phủ xử lý. Những đại biểu, dù là doanh nhân tham gia vào Quốc hội cần phải nói lên tiếng nói của dân, những người bầu ra họ chứ không thể thờ ơ, vô cảm hoặc nói tiếng nói của những người đi ngược lại lợi ích của nhân dân.

Thách thức thứ tư với Thủ tướng và Chính phủ mới chính là nhóm lợi ích. Nhiệm vụ của bộ máy điều hành mới là phải làm sao để lợi ích của sự phát triển được phân bổ đồng đều trong xã hội, cho đa số người dân. Đồng thời, phải kiềm chế những nhóm lợi ích ích kỷ, chỉ nghĩ cho cá nhân mình, gia đình mình, công ty và tập đoàn mình mà không nghĩ tới lợi ích chung của đất nước.

Thậm chí kể cả lợi ích cục bộ của địa phương, các ngành cũng cần phải xem xét, sắp đặt, điều chỉnh cho đi đúng guồng chung của đất nước. Khi đã phân định, giao cho các ngành, các địa phương thì các vị đứng đầu phải điều hành sao cho sự phát triển của các ngành, địa phương hài hòa với lợi ích chung của đất nước. Chứ không thể để xảy ra chuyện cả nước thắt chặt tín dụng mà Bộ Xây dựng lên tiếng muốn gỡ cho doanh nghiệp bất động sản. Hoặc doanh nghiệp bất động sản vừa có đại diện trong Quốc hội đã ngay lập tức phát biểu thắt tín dụng bất động sản là không đúng.

Sự phối hợp thiếu ăn ý giữa các bộ ngành cũng đang làm giảm đáng kể hiệu quả của chính sách. Tài khóa không đi đôi với tín dụng, trong khi vốn ngân hàng thắt chặt thì cắt giảm đầu tư công lại không như mong đợi, khiến lạm phát vẫn leo thang và nhiều khả năng không giữ được mức 17% vào cuối năm nay.

Biết bao nhiêu trường hợp người dân kêu ca nhưng các cơ quan chức năng đá bóng cho nhau. Mỗi vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm, Bộ Nông nghiệp có trách nhiệm một phần, Y tế, Công Thương và Bộ Khoa học Công nghệ cũng có phần trách nhiệm. Nhưng rốt cục là chẳng ai chịu trách nhiệm trước người dân. Điển hình là vụ bức tử sông Thị Vải ở Đồng Nai, giữa Bộ và địa phương đá bóng cho nhau hoài mà không thổi phạt được Vedan, để đến mức phải sử dụng lực lượng xã hội, tức là phản ứng của người tiêu dùng tẩy chay mì chính Vedan thì họ mới chịu đền bù.

Câu chuyện này thể hiện rõ sự kém cỏi trong phối hợp giữa các cơ quan, mà nguyên nhân có thể là thiếu trách nhiệm, thiếu bản lĩnh ở những người có trách nhiệm ở các bộ, các địa phương. Nếu không, xã hội sẽ quy cho anh chịu sức ép của nhóm lợi ích nào đó nên không dám nói, không dám làm.

Chính phủ nhiệm kỳ mới không dễ để xử lý những nhóm lợi ích đó. Nhưng tôi cho rằng, với bản lĩnh của mình, và khi đã rõ đường hướng, Chính phủ sẽ biết được đâu là những lợi ích cần được bảo hộ và không đáng để bảo hộ.

Muốn giải quyết vấn đề nhóm lợi ích, cách tốt nhất là dựa tối đa vào người dân, lợi ích của đông đảo người dân là lợi ích của toàn xã hội. Phải xử lý mạnh tay, chấm dứt những yêu sách, đòi hỏi đi ngược lợi ích số đông, có như thế họ mới chùn tay. Nếu vẫn du di cho nhau, xuê xoa cho nhau thì nhóm lợi ích vẫn tiếp tục hoành hành theo cái cách của họ, ngày càng khôn ngoan hơn, trắng trợn hơn theo kiểu bất chấp tất cả.

Vấn đề cuối cùng, nhưng không phải là vấn đề kém quan trọng nhất, đó là Biển Đông, hay mở rộng hơn chính là chủ quyền đất nước. Trong đáy lòng mình, tôi rất tin Quốc hội và Chính phủ vừa qua đã biết lo, nghĩ về vấn đề hệ trọng này nhưng có nhiều điều khó, không nói ra được với dân. Nhưng hy vọng Chính phủ mới bộc bạch nhiều hơn. Có những điều không tiện nói ra một cách đông đảo nhưng không thể giải quyết bằng cách im lặng trước bức xúc của người dân, nhất là liên quan tới vấn đề hệ trọng của tổ quốc.

Người dân mình, khi đất nước lâm nguy cũng là lúc đoàn kết với nhau nhất, chung sức chung lòng nhất. Đây là cơ hội để nhà nước tập hợp người dân, cùng nhau tập trung giải quyết những vấn đề vận mệnh của đất nước.

Chính phủ và Quốc hội cần dành thời gian nhiều hơn để bàn bạc về vấn đề này, đề ra các giải pháp tăng cường năng lực tự bảo vệ mình. Từng bộ, ngành cũng có trách nhiệm cụ thể. Bộ Quốc phòng, Nông nghiệp Nông thôn phải làm sao để ngư dân ra biển an toàn, yên tâm sinh sống nơi biển đảo. Bộ Giao thông Vận tải phải làm sao để Vinashin làm ra những con tàu tốt.

Bộ Công Thương cũng phải có trách nhiệm của mình. Suốt thời gian qua Bộ Công Thương ở đâu mà để thương lái Trung Quốc vào mua hàng hóa ngay trên đất Việt Nam không cần tư cách pháp nhân, không giấy phép và không nộp một xu thuế cho Nhà nước. Ngân hàng Nhà nước có chịu trách nhiệm gì không, thương lái Trung Quốc vào mua suốt từ Bắc tới Nam thì tiền ở đâu ra mà họ làm được như vậy? Trong khi đó, chúng ta lại nhập siêu rất lớn từ Trung Quốc. Vấn đề chủ quyền không chỉ dừng lại ở biển đảo, mà cần chú ý tới cả trong đất liền nữa.

Để giải quyết tất cả 5 thách thức đó, có lẽ cần quay lại những nguyên tắc rất cơ bản của một thể chế tốt. Chúng ta vẫn nói mong muốn xây dựng một nhà nước trong sạch, vững mạnh. Trong sạch thì phải minh bạch, thể hiện ở việc mọi quy định đưa ra phải rõ ràng, không để ai hiểu sai hoặc cố tình hiểu sai, thực hiện sai. Ai cố tình hiểu sai, cố tình thực hiện sai thì phải trừng trị người đó, đấy mới là minh bạch.

Tôi mong Chính phủ mới sẽ tăng cường hơn nữa, yêu cầu cao hơn nữa về trách nhiệm của người đứng đầu trong tất cả các tầng lớp quản lý. Tôi hoan nghênh có những vị đã mạnh dạn đứng ra xin chịu trách nhiệm trước Quốc hội khi để xảy ra vấn đề trong lĩnh vực mình quản lý. Có như vậy mới khôi phục được lòng tin của dân chúng cũng như cộng đồng nhà đầu tư trong nước, quốc tế.
Song Linh- Hoàng Lan ghi
* Kinh Tế - Chính Sách:
* Văn Hóa - Giáo Dục:
* Tin khác:

Wednesday, July 27, 2011

Hạ nhiệt Biển Đông và trò chơi hai mặt

[TVN] Không phủ nhận tác động giảm nhiệt căng thẳng Biển Đông của hàng loạt động thái ngoại giao dồn dập tại Bali cuối tháng 7/2011, nhất là với bản hướng dẫn thực thi DOC muộn mằn, thế nhưng, có vẻ như, ngay cả thành quả lớn nhất ấy cũng không có gì hơn là một sự khơi gợi niềm tin về thiện chí hợp tác.

Giảm nhiệt nhưng còn quá khác biệt

Không giống các cuộc họp trước, tại ARF 18 ở Bali vừa qua, Ngoại trưởng Trung Quốc, Dương Khiết Trì đã thừa nhận thực tế "có tranh chấp về chủ quyền đối với cả đảo, đá và phân định vùng nước ở Biển Đông".

Ông này cũng nhắc đến nhu cầu xử lý tranh chấp, giảm khác biệt,tăng lòng tin lẫn nhau, mở rộng hợp tác, vì hòa bình và ổn định ở Biển Đông. Theo ông, các tranh chấp này nên được giải quyết hòa bình trên cơ sở tham vấn hữu nghị giữa các bên liên quan tranh chấp...

Kết quả hiện hữu được dẫn ra cho nỗ lực hợp tác của các bên trong xử lý vấn đề Biển Đông chính là bản hướng dẫn thực thi Tuyên bố của các bên về ứng xử trên Biển Đông mà Bộ trưởng ASEAN và Trung Quốc vừa mới thông qua một ngày trước ARF.

9 năm chờ đợi, bản hướng dẫn được xem là bước tiến khiến không ít người lạc quan hơn về tương lai Biển Đông. Nhà ngoại giao Việt Nam, ông Phạm Quang Vinh cho rằng "đây là một khởi đầu tốt và có ý nghĩa để chúng ta tiếp tục cùng nhau đối thoại và hợp tác để thúc đẩy hơn nữa sự ổn định, lòng tin trong khu vực".

"Trung Quốc và ASEAN sẽ thực thi đầy đủ và toàn diện DOC và sẽ khởi động các hoạt động thực thi thông qua các dự án hợp tác", Trợ lý Ngoại trưởng Trung Quốc Lưu Chấn Dân nói.

Ngoại trưởng Indonesia Marty cho rằng, cam kết về Quy tắc hướng dẫn thực hiện DOC sẽ thuyết phục thế giới rằng hai bên có thể tránh được xung đột và giải quyết tranh chấp bằng con đường hòa bình.... Việc kết thúc các quy tắc chứng tỏ rằng các quốc gia thành viên ASEAN và Trung Quốc đã nhận ra những lợi ích chung.

Thế nhưng, như Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton nhận định, bản hướng dẫn chỉ là "một bước đi đầu tiên quan trọng" tiến tới một giải pháp ngoại giao cuối cùng.

Trả lời phỏng vấn của đài ABC, Australia, giám đốc chương trình nghiên cứu Biển Đông, Học viện Ngoại giao Việt Nam, TS. Trần Trường Thủy cho rằng văn bản vừa đạt được giữa Trung Quốc và ASEAN là văn bản hướng dẫn cách thức thực hiện DOC, có thể so sánh là như thông tư hướng dẫn thực hiện sau khi đã ban hành luật. Nội dung văn bản là các bước hướng dẫn cách thức thực hiện cụ thể các điều khoản của DOC.

Thế nhưng nhìn vào nội dung 8 điểm của bản hướng dẫn thực thi DOC, dư luận đã phải cố giấu đi tiếng thở dài thất vọng, vì ngay cả thành quả lớn nhất đạt được đến lúc này kể từ khi có DOC năm 2002 cũng không có mấy ý nghĩa, ngoài một sự khơi gợi niềm tin về thiện chí hợp tác.

Báo Jakarta Post của Indonesia dẫn các nội dung chính của văn bản này:
  1. Việc thực hiện DOC cần tiến hành từng bước phù hợp với các điều khoản trong DOC.

  2. Các bên tham gia DOC sẽ tiếp tục thúc đẩy đối thoại và tham vấn theo tinh thần của DOC.

  3. Việc tiến hành các hoạt động hoặc các dự án đã được quy định trong DOC cần được xác định rõ ràng.

  4. Việc tham gia các hoạt động hoặc các dự án cần được thực hiện trên cơ sở tự nguyện.

  5. Các hoạt động ban đầu được cam kết trong phạm vi DOC cần phải là các biện pháp xây dựng lòng tin.

  6. Quyết định thực hiện các biện pháp hoặc các hoạt động cụ thể của DOC cần dựa trên sự đồng thuận giữa các bên liên quan và tiến tới hiện thực hóa COC.

  7. Trong quá trình thực hiện các dự án đã được thỏa thuận, khi cần thiết, sẽ trưng cầu sự phục vụ của các chuyên gia, các nhân vật kiệt xuất nhằm cung cấp nguồn lực cụ thể đối với các dự án liên quan.

  8. Tiến trình thực hiện các hoạt động và các dự án đã được thỏa thuận trong DOC sẽ được thông báo hàng năm cho Hội nghị Ngoại trưởng ASEAN - Trung Quốc.

Trao đổi bên hành lang Quốc hội, nơi vị cựu Chủ nhiệm UB Đối ngoại của Quốc hội đến dự với tư cách khách mời, chiều 25/7, ông Vũ Mão cho rằng, những gì đạt được còn quá nhỏ so với trông đợi và nhu cầu.

Nếu như đây là một dạng "thông tư hướng dẫn" dưới luật, không hiểu ASEAN và Trung Quốc sẽ phải vận dụng ra sao để triển khai DOC trên thực tế, giải quyết được xung đột đang ngày một gia tăng giữa các bên tranh chấp ở Biển Đông, khi những điểm đạt được mơ hồ và không đầy đủ. Những bất đồng vẫn còn đó, chưa được giải quyết. Chưa nói đến một cơ chế giải quyết xung đột, thậm chí, ngay cả quy định về phạm vi hiệu lực của DOC vẫn còn để ngỏ.

Trong khi ASEAN muốn các điều khoản của DOC được thực thi đầy đủ, thì Trung Quốc chỉ muốn tập trung làm các dự án, mà rõ ràng Trung Quốc là người hưởng lợi nhiều hơn. Trong khi ASEAN muốn đạt được COC trong dịp kỉ niệm 10 năm DOC năm tới, thì Trung Quốc "sẵn lòng thảo luận về cơ chế COC khi điều kiện cho phép". Điều kiện cho phép ấy là gì, phải chăng chính là lúc Trung Quốc đã sẵn sàng về sức mạnh và dư luận, để từ bỏ chủ trương giấu mình chờ thời?

"Việc hai bên đạt được thống nhất về Văn bản hướng dẫn này chỉ là bước nhỏ trong quản lý tranh chấp Biển Đông. Văn bản chỉ thể hiện là Trung Quốc và ASEAN có thể ngồi đàm phán và đặt được thỏa thuận với nhau. Cả DOC và văn bản hướng dẫn này không đủ hiệu lực để ngăn ngừa các hành vi làm phức tạp, căng thẳng tình hình của các bên", TS Trần Trường Thủy nói với ABC.

Nếu như DOC dù không tính ràng buộc pháp lý nhưng là một cam kết chính trị của các quốc gia liên quan, thì văn bản này, về thực chất, sẽ chỉ có tác dụng viện dẫn khi cần thiết, nhằm chứng minh khả năng tự đối mặt và giải quyết vấn đề của mình, cho Trung Quốc và ASEAN. Hành trình từ DOC đến COC có vẻ vẫn còn xa tít tắp.

"Thà là có một hướng dẫn chưa được phát triển đầy đủ, hơn là chẳng có hướng dẫn nào cả", Ngoại trưởng nước chủ nhà Indonesia đã nói như vậy với báo giới. Nhưng có thật đó là lựa chọn tốt và khôn ngoan với ASEAN trong việc giải quyết thực chất hồ sơ Biển Đông, khi chấp nhận một văn bản nửa vời và nhiều phần thỏa hiệp. Đạt được một thành tích để trấn an dư luận mỗi nước và cộng đồng quốc tế tốt hơn hay thà chấp nhận thực tế những khác biệt và đối mặt với sức ép để quyết tâm thúc đẩy một giải pháp thực chất? Không phải ngẫu nhiên nhiều nước ra về với tâm trạng không mấy phấn khởi với văn bản hướng dẫn này.

Trò chơi hai mặt

Điều đáng nói là, ngay trong khi nhấn mạnh nhu cầu hợp tác, đối thoại và đồng thuận để giải quyết tranh chấp Biển Đông, Ngoại trưởng Trung Quốc lại có những phát biểu khiến dư luận đặt câu hỏi về trò chơi hai mặt và chia rẽ của nước này.

Một mặt, ông Dương Khiết Trì trấn an láng giềng và quốc tế bằng một thỏa thuận để thực thi DOC, trong khi, mặt khác Trung Quốc vẫn không từ bỏ những tuyên bố và các hành động bị dư luận lên án của mình.

Trong khi nhấn mạnh giá trị của văn bản hướng dẫn thực thi DOC cũng như cam kết và sự chân thành của Trung Quốc trong vấn đề này tại diễn đàn đa phương, thì cũng tại Bali, Ngoại trưởng Dương Khiết Trì lặp lại quan điểm cách duy nhất để giải quyết tranh chấp lãnh thổ trên Biển Đông là đàm phán song phương. Trong cuộc gặp với Việt Nam, ông này còn lên tiếng khuyên Việt Nam "tránh làm nóng vấn đề" mà cố tình quên đi sự thật chính Trung Quốc chính là nước gây hấn làm nóng tình hình Biển Đông thời gian qua.

Ngay tại Bali, Ngoại trưởng Philippines Albert del Rosario đã nói thẳng, những lời trấn an của Trung Quốc không có nhiều ý nghĩa khi mà Bắc Kinh không hề thay đổi lập trường cố hữu, không thừa nhận chủ quyền của bất kỳ quốc gia nào tại Biển Đông.

"Làm sao mà bạn có thể thảo luận được điều gì trong khuôn khổ song phương, khi bạn ngồi vào bàn đàm phán với Trung Quốc thì họ nói rằng tất cả là của họ", ông Albert del Rosario nói.

Trong khi Trung Quốc tuyên bố "quan tâm đến tự do hàng hải ở Biển Đông", đóng góp vào tự do hàng và an toàn hàng hải, thì Trung Quốc đã cố tình quên thực tế về đường chữ U tham lam và hành động ngăn cấm, cản phá các hoạt động kinh tế hợp pháp của các nước ở Biển Đông (hành động cắt cáp dầu khí trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam là một minh chứng) đang làm các nước lo ngại.

Bất chấp những chỉ trích quốc tế về yêu sách tham lam đường chữ U trên Biển Đông, thì tại ARF, Ngoại trưởng Trung Quốc vẫn khẳng định yêu sách đường 9 đoạn, mà không viện dẫn bằng chứng để chứng minh, như đòi hỏi của luật pháp và dư luận quốc tế. Nước này có vẻ cũng không thấy có nhu cầu lí giải thực chất yêu sách 9 đoạn là gì.

Dường như, những gì Trung Quốc làm tại ARF chỉ là để trấn an khu vực và thế giới, rằng "khu vực vẫn ổn định", ASEAN và Trung Quốc có đủ "lòng tin, năng lực và giải pháp" cho tranh chấp Biển Đông. Và lớn hơn, Trung Quốc không cần sự can dự của một bên thứ ba, nhất là Mỹ.

Nhân tố Mỹ

Đúng vào ngày Trung Quốc-ASEAN đạt được đồng thuận về văn bản hướng dẫn thực thi DOC sau 9 năm đàm phán, Bắc Kinh đã lên tiếng nhắc lại lập trường là không chấp nhận cho Mỹ can thiệp. Tờ "Nhân dân nhật báo" - cơ quan ngôn luận của Đảng Cộng sản Trung Quốc - ngày 20/7 cho rằng Mỹ nên đứng ngoài những căng thẳng do tranh chấp ở Biển Đông, bởi "Trung Quốc và các nước láng giềng có đủ khả năng, kinh nghiệm và hiểu biết để tự giải quyết".

Giới quan sát đặt câu hỏi, phải chăng muốn ngăn chặn sự can thiệp của Mỹ, thuyết phục các nước Đông Nam Á coi đây là công việc nội bộ trong khu vực mà Trung Quốc đã chấp nhận ký văn bản hướng dẫn thực thi DOC? Cũng giống như gần một thập niên trước, tuyên bố ASEAN là mặt trận thứ 2 của Mỹ trong cuộc chiến chống khủng bố đã thúc đẩy Trung Quốc xích lại gần Đông Nam Á, kí DOC với ASEAN?

Một khi đã cho rằng Biển Đông liên quan đến lợi ích quốc gia thì Mỹ khó có thể đứng ngoài cuộc và sẽ tìm cách can dự, dù bằng cách này hay cách khác, ở các cấp độ khác nhau, tùy theo từng đối tác trong khu vực. Và chính Trung Quốc và chính sách gây hấn của nước này là nhân tố chính để Mỹ buộc phải xem lại chính sách Đông Nam Á và chính sách Biển Đông của mình, chuyển sang can dự tích cực hơn. Không vì tuyên bố mang tính trấn an của Trung Quốc, rằng "an toàn hàng hải vẫn được đảm bảo" và "an toàn hàng hải và tranh chấp Biển Đông là hai vấn đề riêng biệt, không nên bị trộn lẫn" mà Mỹ chuyển hướng tiếp cận, "sống chết mặc bay". Bởi như Ngoại trưởng Singapore, K.Shanmugam lạc quan, với ARF, lợi ích của nước nhỏ không bị bỏ qua hoàn toàn trong mối quan hệ giữa các nước lớn.

Không trông đợi Mỹ sẽ thay ASEAN giải quyết vấn đề của chính họ, nhưng ASEAN có quyền trông đợi về một nước lớn gánh trách nhiệm lớn sẽ chung tay cùng gìn giữ hòa bình và ổn định.

Why China will not bring the Spratlys issue to the United Nations by Ted Laguatan

[INQ] Based on applicable international maritime and related laws, China knows that if she petitions the United Nations International Court of Justice or the International Tribunal for the Law of the Sea to affirm her dubious claim that she owns everything in the South China Sea aka West Philippine Sea — her chances of winning are about as likely as having a snowfall in the Sahara desert.

Both Courts have proper jurisdictions to settle sovereignty issues between nations regarding marine territories — such as those concerning the Spratly and Paracel islands.

Let’s imagine what most likely would happen if China does take her case to the International Court of Justice and the representative of China — let’s call him Mr. Lee — is before the Court headed by the Presiding Judge. Consider this scenario:

Judge: “Please inform this Court of the basis for your claim that the entire South China Sea aka West Philippine Sea belongs completely to the People’s Republic of China?”

Mr. Lee: “Thank you, your honor. Our claim is based on the historical fact that this entire area has belonged to us since the Han Dynasty.”

Judge: “How do you intend to prove your case?”

Mr. Lee: “I will present to this Court an almost two thousand year old Han Dynasty map that indicates the limits of the Han Dynasty kingdom.”

Judge: “Let’s assume for purposes of discussion that the Philippines, Vietnam, Malaysia, Brunei and other surrounding countries were provinces or part of the Han Dynasty during its time even if the map you hold may just actually be a navigational map which does not really define the limits of the Han Dynasty. Now my study of China’s history indicate that the Han Dynasty lasted from 206 B.C. To 220 A.D. Is this correct?”

Mr. Lee: “Yes your honor.”

Judge: “I assume Mr. Lee that you are familiar with Alexander the Great, the young Macedonian king who conquered much of the ancient world.”

Mr. Lee: “I am, your honor.”

Judge: “At the time of his death in 323 B.C., Alexander’s kingdom included Greece, Syria, Persia now known as Iran, Egypt and a part of India. Are you aware Mr. Lee that Macedonia, Alexander’s country — is now known as the Republic of Macedonia?”

Mr. Lee: “If you say so your honor.”

Judge: “Good! You appear to know your history. I assume you are also familiar with the Roman Empire which existed for over a thousand years.”

Mr. Lee: “Thank you your honor, I do read history.”

Judge: “You are then aware Mr. Lee that at its height, the Roman Empire included most of Europe and parts of Africa and Asia.”

Mr. Lee: “I am aware, your honor.”

Judge: “Now Mr. Lee, since the time of Alexander, the Roman Empire and the Han Dynasty — through the course of time and historical events, various independent countries have emerged in Europe, Africa and Asia — which now have their own respective territories. This is a reality which we all have to accept, wouldn’t you say?”

Mr. Lee: “We cannot deny reality, your honor.”

Judge: “Now Mr. Lee, another undeniable reality is that Alexander’s empire, the Roman empire and the Han Dynasty kingdom are no longer existent — am I correct in my observation?

Mr. Lee: “You are correct, your honor.”

Judge: “Now Mr.Lee, in all candor, do you seriously believe that if the Republic of Macedonia and the Italian government were to come before this Court and petition us to affirm that they own the territories of these now independent countries because they were once a part of Alexander’s empire or the Roman empire — that we would be persuaded to grant these petitions?”

Mr. Lee: “I understand what you are getting at, Judge — but most of what we are claiming as ours is marine area and not land.”

Judge: “The Spratlys and the Paracel islands are not land? Anyway, isn’t it a fact that China is a signatory to the 1982 United Nations Convention on the Law of the Sea (UNCLOS) which she ratified on July 6, 1996 thereby agreeing to be bound by its provisions — and part of which is that anything within 200 miles from the baseline of a country belongs to that country?

Mr. Lee: “China did agree to those provisions at a time when it was not yet aware of the far reaching consequences of UNCLOS to her national interests.”

Judge: “I will not mince my words Mr. Lee. What you mean is that at that time, the world, including China, was not yet aware, that vast deposits of oil and natural gas were to be found within the territorial limits of neighboring countries. Now because of this awareness, even if China knows she is trespassing and violating international law, she is using the coercive might of her size, military or otherwise — to grab these enormous reserves of petrowealth from the territories of her smaller, weaker, poorer neighbors — who badly need these assets to improve the plight of their own people.

Postscript: In view of all the facts and existing applicable law, the likelihood is that the UN court will find China’s petition to be without merit.

Notwithstanding requests from the Philippines, neighboring countries and the United States to bring West Philippine Sea sovereignty issues to the United Nations, China has steadfastly refused to do so. Instead, it is constantly involved in mind games, using scare tactics, insisting that everything in the whole West Philippine Sea is theirs and that this issue is non-negotiable.

By so doing, the gigantic oil hungry dragon seeks to condition the national minds of her neighbors to forcibly accept inequitable bilateral settlement agreements — without United Nations or United States involvement. The Philippines, Vietnam and other neighbor countries must not fall into this trap. They should unite and create an alliance and insist — with the aid of the global community, with military means if necessary — that China should respect their rights and leave their national patrimony alone.

The most loudly applauded part of President Benigno Simeon Aquino’s State of the Nation speech was his strong affirmation that what belongs to the Philippines stays in the Philippines. Everyone understood his meaning: The Philippines will stand firm against China’s bully tactics and mind games in trying to grab our energy and marine resources.

What a big difference to have a trustworthy President who provides moral leadership and looks after the interests of the nation instead of one ready to sell out the country’s patrimony for personal gain.

Note: The California State Bar honors Attorney Ted Laguatan as one of the best lawyers in the country. He is one of only 29 U.S. lawyers officially certified continuously for more than 20 years as an Expert Specialist in Immigration Law. For communications: (San Francisco area)

455 Hickey Blvd. Suite 516, Daly City, Ca 94015 Tel 650 991 1154 Fax 650 991 1184 Email laguatanlaw@gmail.com

Other Articles:

Sunday, July 24, 2011

Xuyên tạc lịch sử trong âm mưu chiếm đoạt Hoàng Sa và Trường Sa




Đảo Đá Đông thuộc quần đảo
 Trường Sa, Việt Nam
[TVN/ĐĐK] Có thể nói, tham vọng áp đặt chủ quyền phi lý của Trung Quốc trên hầu hết Biển Đông đã tỏ ra hết sức mâu thuẫn với nguồn tài liệu chính sử của họ. Từ lâu, Trung Quốc đã không từ bỏ việc làm mà tất cả các học giả chân chính đều lên án là cố tình bịa đặt và xuyên tạc lịch sử.

Hành động này đã được Trung Quốc toan tính lâu dài và tổ chức thực hiện công phu để có thể xuyên tạc lịch sử hàng ngàn năm từ cổ chí kim trong nhiều lĩnh vực khác nhau. Trong phạm vi của bài viết này, chúng tôi chỉ có thể điểm ra một vài trường hợp cụ thể như là một trong rất nhiều minh chứng cho những toan tính trên của Trung Quốc.

Đảo Đá Đông thuộc quần đảo Trường Sa, Việt Nam Các Sách Trắng về chủ quyền của Trung Quốc tại hai quần đảo Tây Sa và Nam Sa, cũng như một số tài liệu nghiên cứu của các học giả Trung Quốc mà tiêu biểu là ông Hàn Chấn Hoa với cuốn "Tổng hợp sử liệu các đảo Nam Hải của nước ta" (Trung Quốc -NV) đã đưa ra nhiều kết luận "hùng hồn" rằng có rất nhiều "sự thật lịch sử", trong đó có sự hiện diện của các di chỉ khảo cổ, "chứng tỏ đầy đủ rằng" Trung Quốc là người đã phát hiện, kinh doanh, khai thác và thực hiện việc cai quản đầu tiên các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa (mà họ gọi là Tây Sa và Nam Sa) từ "hàng nghìn năm nay".

Thế nhưng, đáng tiếc là các sử gia Trung Quốc thời cổ xưa lại chính là những nhà chép sử có lòng tự trọng và nghiêm túc với chức trách. Các bộ Sử ký của nhiều triều đại phong kiến Trung Quốc đã ghi lại hầu hết các sự kiện quan trọng với nhiều chi tiết rõ ràng, nên khi đi vào từng vấn đề cụ thể, lập luận của Trung Quốc ngày nay về chủ quyền của họ trên Biển Đông, trong đó có hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam cũng đã tỏ ra hết sức mâu thuẫn với bản thân các tài liệu chính sử. Xét về mặt địa lý, Trung Quốc trích dẫn từ một số sách địa lý cổ xưa của họ có những ghi nhận và mô tả về các đảo Hoàng Sa và Trường Sa để cho rằng họ phát hiện và xác lập chủ quyền tại hai quần đảo này từ hàng ngàn năm qua.

Chẳng hạn như cuốn Nam Châu Dị Vật Chí của Vạn Chấn (thời Tam Quốc 220-265) viết dưới thời Hán Vũ Đế, có mô tả về các đảo đá và cát trên Biển Đông, có đoạn mô tả chỗ nước nông và có đá nam châm khiến cho tàu thuyền qua lại nguy hiểm, dễ bị chìm. Dị Vật Chí của Dương Phù (đời Đông Hán, 25-220 sau CN) nói về những điều lạ của xứ nước ngoài mô tả địa danh Trướng Hải như sau: "Tại Trướng Hải Kỳ Đầu nước cạn nhưng nhiều đá nam châm, thuyền lớn đi ngoài cõi, dưới thuyền gắn lá sắt sẽ bị nhổ ra".

Chỉ có vậy, thế nhưng các tài liệu gần đây của Trung Quốc lại "áp đặt" sự mô tả này về Trướng Hải Kỳ Đầu cùng truyền thuyết về đá nam châm hút đinh sắt của các thuyền có liên quan tới các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa trong Biển Đông. Cũng cần nhấn mạnh rằng, phần lớn các thư tịch cổ của Trung Quốc khi nói về đảo và các bãi đá ngầm trên Biển Đông đều chép với rất nhiều tên gọi khác nhau.

Chẳng hạn như trong cuốn Đông Tây Dương Khảo của Trương Nhiếp (1618), có nói đến các đảo nằm cách huyện Văn Xương 100 dặm (khoảng 50km), điều này không thể phù hợp về mặt địa lý với quần đảo Hoàng Sa (Paracels) nằm cách Hải Nam về phía nam đến hơn 250km. Tên của các đảo này cũng được chép rất khác nhau tùy theo sự tưởng tượng của tác giả như: Cửu Nhũ Loa Châu, Vạn Lý Thạch Đường, Thiên Lý Thạch Đường, Thất Châu Dương, Thất Châu Sơn... Thật là khó có thể chấp nhận quan điểm của Trung Quốc khi họ cứ khăng khăng cho rằng những đảo đó chính là quần đảo Hoàng Sa (Paracels) hoặc có lẽ là Trường Sa (Spratleys).

Đôi khi, sự khẳng định của họ không khỏi gây ra sự sửng sốt. Trong tài liệu "Các biên giới của Trung Quốc" của Chu Kiện (1991), tác giả khẳng định "năm 1873, Quách Tông Đào, Đại sứ đầu tiên của Trung Quốc được cử sang phương Tây, trong nhật ký hành trình đã nhắc đến Nam Sa (Spratleys) thuộc về Trung Quốc". Thế nhưng đoạn văn này lại được minh hoạ thêm bởi chú thích đề cập tới Hoàng Sa (Paracels) và ghi chú đảo nằm ở vĩ độ 17 Bắc. Đây quả là sự lẫn lộn nghiêm trọng và càng cho thấy sự cố tình gán ghép các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam vốn nằm phía nam vĩ tuyến 17 vào lãnh thổ Trung Quốc.

Các tham vọng của Trung Quốc còn mâu thuẫn bởi chính các nguồn tư liệu khác của họ. Nhiều tài liệu địa lý cổ mô tả và phân định rõ lãnh thổ của đế chế Trung Hoa khá trùng hợp nhau, các mô tả này đều định rõ lãnh thổ Trung Hoa có điểm tận cùng ở phía nam là đảo Hải Nam. Theo hướng này, trong số các cuốn sách ở thế kỷ XII, rồi thế kỷ XVII và XVIII, trong đó các cuốn Địa chí phủ Quỳnh Châu (tức đảo Hải Nam) cũng như cuốn Địa chí tỉnh Quảng Đông năm 1731, cuốn sách dâng nộp vua Thanh năm thứ 9 đời Văn Chính (1731), bản đồ tỉnh Quảng Đông không nói gì đến hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

Trong khi đó vào năm 1754, các dân binh hải đội Hoàng Sa của Việt Nam bị đắm thuyền khi công tác trên quần đảo Hoàng Sa trôi dạt tới bờ biển Trung Quốc, nhà chức trách Trung Quốc sau khi thẩm tra xong đã đưa họ về quê hương mà không có sự phản kháng nào của Trung Quốc, chứng tỏ hoạt động của hải đội Hoàng Sa được Trung Quốc thời đó ghi nhận là việc bình thường thực thi chủ quyền của Việt Nam tại vùng biển này. Trong tất cả các tài liệu Trung Quốc đều nhắc lại rằng các ngư dân Trung Quốc đã đến các đảo trên Biển Đông vào mọi thời kỳ. Nhưng, các tài liệu mà họ đưa ra chỉ cho thấy đó là những hành vi cá nhân, không mang tính nhà nước, không phù hợp với một sự chiếm hữu cũng như với ý định khẳng định chủ quyền lãnh thổ quốc gia bởi vì việc chiếm cứ "do các tư nhân không hành động nhân danh chính phủ của họ mà thực hiện vì một lợi ích cá nhân không tạo thành một sự chiếm hữu", theo luật pháp quốc tế đương thời.

Hơn nữa, cũng trong những thời kỳ này, chính các quần đảo đó thường được các ngư dân Việt Nam lui tới. Trên thực tế, đã không có một chút dấu vết gì chứng tỏ là Trung Quốc đã từng phản kháng lại sự khẳng định chủ quyền của Hoàng đế Gia Long và các người kế nhiệm ông trong suốt cả thế kỷ XVIII cũng như thế kỷ XIX, khi các chúa Nguyễn của Việt Nam tổ chức việc khai thác các đảo nằm dưới quyền tài phán của họ một cách mạnh mẽ và liên tục. Chúng ta có thể tìm thấy trong các văn tập lịch sử Trung Quốc những lời xác nhận sự không tồn tại tham vọng về các đảo trên Biển Đông của Trung Quốc trong lịch sử.

Như vậy, có thể thấy rằng Trung Quốc chưa bao giờ có việc thực thi chủ quyền mang tính nhà nước đối với các quần đảo này suốt lịch sử cho tới đầu thế kỷ XX. Sự thờ ơ của Trung Quốc đối với các quần đảo trên Biển Đông đã được hai tài liệu xác nhận: bản đồ Trung Hoa của đế chế thống nhất Hoàng Triều Nhất Thống Dư Địa Tổng Đồ, phát hành vào năm 1894, lãnh thổ Trung Quốc trong đó chỉ mở rộng tới đảo Hải Nam. Ngoài ra, quyển "Trung Quốc Địa Lý Học Giáo Khoa Thư", phát hành năm 1906 nêu ở trang 241 rằng "điểm cực nam của Trung Quốc là bờ biển Nhai Châu, đảo Quỳnh Châu, ở vĩ tuyến 18°13' Bắc".

Sự chính xác và rõ ràng của các luận chứng khẳng định chủ quyền lâu đời, liên tục của Việt Nam bằng những hành động cụ thể của người Việt theo lệnh của triều đình từ thế kỷ XVIII, khiến Trung Quốc phải phản bác lại là các vua chúa Việt Nam luôn chỉ hoạt động nhằm phục vụ Hoàng đế Trung Hoa. Điều này lại càng phi lý. Vương quốc Việt Nam (Đại Cồ Việt) được thành lập vào thế kỷ XI bằng việc thiết lập một quyền lực chính trị và một nền cai trị độc lập đối với Trung Quốc, nhưng đồng thời công nhận một cách khéo léo quyền bá chủ của Trung Quốc.




Khu hậu cần nghề cá trên đảo Song Tử Tây,
 quần đảo Trường Sa, Việt Nam

Mối quan hệ chư hầu này khó xác định theo một quan điểm pháp lý bởi vì nội dung của nó mơ hồ và tăng giảm tùy theo các thời kỳ. Trong lịch sử bang giao Đại Việt - Trung Hoa, các triều đại Việt Nam cần lễ thụ phong của Trung Quốc để được công nhận, giống như mọi quốc gia hiện đại muốn đứng vững thì không thể bỏ qua sự công nhận quốc tế. Đối với Trung Quốc, cống nạp thể hiện sự phụ thuộc tối đa mà họ hy vọng. Ngược lại, đối với Đại Việt, cống nạp thể hiện sự độc lập tối đa mà vương quốc này có thể đạt tới mà không gây nên phản ứng đế quốc từ phía Trung Quốc. Chế độ chư hầu được Việt Nam chấp nhận trên danh nghĩa, dưới hình thức triều cống danh dự. Nhưng nghĩa vụ tôn kính của triều đình Việt Nam đối với "Thiên triều" là hoàn toàn hình thức.

Lịch sử các quan hệ Trung-Việt từ khi thành lập nước Việt Nam, thoát ra khỏi sự chi phối của Trung Quốc, đã được đánh dấu bằng nhiều mưu toan quân sự của Trung Quốc chống lại Việt Nam. Sau khi đã chiến thắng, các vua Việt Nam không bao giờ quên việc tìm cách xoa dịu người láng giềng khổng lồ của mình bằng một sự thần phục tượng trưng. Từ đó cho thấy lập luận của Trung Quốc đưa ra từ quan hệ chư hầu để mập mờ đòi hỏi yêu sách chủ quyền lãnh thổ của Việt Nam là không hề có giá trị pháp lý. 

Trung Quốc cũng sử dụng một số báo cáo về khảo cổ học để cho rằng họ có chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Tuy nhiên, không có một kiểm chứng khoa học khách quan nào cho thấy những di vật cổ xưa nói là được tìm thấy trên các quần đảo này là của người Trung Quốc. Hơn nữa, theo giới chuyên môn, giả sử "các di chỉ khảo cổ" mà Trung Quốc cho là phát hiện tại hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam đúng là của người Trung Quốc đi chăng nữa, thì theo luật pháp quốc tế, cũng không có ý nghĩa trong việc xác lập chủ quyền lãnh thổ tại đây. Là một ngành khoa học, khảo cổ học và những di chỉ khảo cổ không có vai trò quyết định trong việc công nhận hay bác bỏ chủ quyền của một quốc gia trên một vùng lãnh thổ nơi các di chỉ khảo cổ hiện diện.

Việc Trung Quốc coi các "di chỉ khảo cổ" nói là tìm thấy ở quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa để kết luận "hàng loạt tư liệu văn vật này chứng minh một cách hùng hồn rằng quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa từ cổ xưa là lãnh thổ của Trung Quốc" là một kết luận mang tính suy diễn, không có cơ sở khoa học, lịch sử và pháp lý quốc tế. Cái gọi là những "di chỉ khảo cổ" của Trung Quốc chỉ là sự bịa đặt cố ý nhằm phục vụ cho mưu đồ chính trị, không làm thay đổi được thực tế là hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa đã thuộc chủ quyền lãnh thổ Việt Nam từ rất lâu đời và người Việt Nam đã thực thi quyền chủ quyền của mình liên tục trên hai quần đảo này cho tới nay.
Nhóm phóng viên
* Biển Đảo:

* Văn Hóa - Giáo Dục:
* Kinh Tế - Chính Sách: